H. Kim (Ghi theo báo cáo của Nhóm tác giả) Nhịp sống kinh tế / CafeF
Trong bối cảnh dịch bệnh được kiểm soát và Chính phủ kiên định với chiến lược “Sống chung an toàn, linh hoạt với Covid-19”, mở cửa lại hầu hết các hoạt động kinh tế – xã hội, kinh tế Việt Nam 9 tháng đầu năm 2022 phục hồi mạnh mẽ với nhiều điểm sáng.
Trong 9 tháng đầu năm 2022, mặc dù tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều nước đang rơi vào suy thoái kỹ thuật hoặc tăng trưởng chậm lại rõ rệt; lạm phát toàn cầu tăng và vẫn ở mức cao; nhưng Việt Nam kiên định với chiến lược “Sống chung an toàn, linh hoạt với Covid-19”, mở cửa hầu như hoàn toàn và ban hành nhiều chính sách, giải pháp phục hồi, ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vĩ mô, kinh tế Việt Nam đang phục hồi mạnh mẽ, khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, tạo tiền đề quan trọng giúp nền kinh tế tăng trưởng cao trong cả năm 2022, thêm nguồn lực, động lực cho các năm tiếp theo trong bối cảnh còn rất nhiều khó khăn, thách thức ở phía trước.
KINH TẾ PHỤC HỒI MẠNH MẼ, KHÁ TOÀN DIỆN
Trong bối cảnh dịch bệnh được kiểm soát và Chính phủ kiên định với chiến lược “Sống chung an toàn, linh hoạt với Covid-19”, mở cửa lại hầu hết các hoạt động kinh tế – xã hội, kinh tế Việt Nam 9 tháng đầu năm 2022 phục hồi mạnh mẽ với nhiều điểm sáng.
Thứ nhất, tình hình dịch bệnh kiểm soát tốt, Quốc hội và Chính phủ đã có nhiều chính sách nhằm hỗ trợ phục hồi, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong 9 đầu năm 2022, tình hình dịch bệnh được kiểm soát, cùng sự linh hoạt trong chính sách kiểm soát dịch Covid-19 của Chính phủ giúp các hoạt động kinh tế – xã hội đã được khôi phục gần như hoàn toàn, là cơ sở cho kinh tế Việt Nam phục hồi mạnh mẽ. Bên cạnh đó, trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều yếu tố bất ổn, Quốc hội và Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ phục hồi, ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như Nghị quyết 43/2022/QH15 ngày 11/1/2022 của Quốc Hội, Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội 2022-2023; đặc biệt gần đây là Nghị quyết số 86/NQ-CP ngày 11/7/2022 về phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững; Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 29/8/2022 về một số giải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững; Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 16/09/2022 về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế trong tình hình mới; Nghị định 65/2022/NĐ-CP ngày 16/9/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 153/2020/NĐ-CP quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ; bàn thảo sửa một số Luật quan trọng như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh BĐS, Luật giá…v.v.
Thứ hai, GDP quý III tăng trưởng ấn tượng, đạt 13,67% so với cùng kỳ năm trước – là mức tăng trưởng quý III cao nhất từ năm 2010 đến nay; cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam (một phần cũng là do so sánh với mức nền thấp của cùng kỳ năm 2021). Tính chung 9 tháng đầu năm, GDP tăng 8,83% so với cùng kỳ, cao hơn mức tăng 6,98% cùng kỳ năm 2021 và cao hơn mục tiêu của Chính phủ tại Nghị quyết 01/2022 (5,9-6,4%). Các động lực tăng trưởng chính (về phía cầu) đều phục hồi mạnh mẽ, với xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 8,94%, đầu tư tăng 5,59% và tiêu dùng cuối cùng tăng 7,26% so với cùng kỳ năm 2021.
Thứ ba,lạm phát trong tầm kiểm soát. CPI bình quân 9 tháng đầu năm tăng 2,73%, chủ yếu do tác động của giá 3 nhóm hàng hóa – dịch vụ là giao thông tăng 14,98%, hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,69%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,11%. Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới và trong khu vực, lạm phát của Việt Nam cơ bản trong tầm kiểm soát và trong mục tiêu của Quốc Hội, Chính phủ (khoảng 4%).
Thứ tư,xuất, nhập khẩu tăng trưởng tích cực. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 558,5 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu tăng 17,3% và nhập khẩu tăng 15,3%, giúp cán cân thương mại thặng dư 6,5 tỷ USD, hỗ trợ ổn định tỷ giá và thúc đẩy tăng trưởng (về phía cầu).
Thứ năm, giải ngân vốn FDI khả quan. Lũy kế đến hết ngày 20/9/2022, mặc dù tổng vốn FDI đăng ký giảm 15,3% (đạt 18,8 tỷ USD); giải ngân vốn FDI đạt 15,4 tỷ USD, tăng mạnh 16,2% – làmức cao nhất của 9 tháng trong 5 năm qua, cho thấy niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam; góp phần hỗ trợ ổn định tỷ giá và các cân đối vĩ mô khác.
Thứ sáu, thu ngân sách tăng mạnh nhờ kinh tế hồi phục song chưa thực sự bền vững; hết 9 tháng đầu năm, thu NSNN đạt 1.327,3 nghìn tỷ đồng, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2021. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là đà tăng chưa thực sự bền vững do tỷ trọng các khoản thu thiếu bền vững chiếm khoảng 20-25% tổng thu NSNN (trong đó, tỷ trọng thu từ dầu thô tăng từ mức 2,7% lên 4,6% tổng thu NSNN, thu từ thuế sử dụng đất trong tổng thu ngân sách tại nhiều địa phương ở mức khá cao, chiếm khoảng 15-20%). Chi NSNN đạt 1.086,3 nghìn tỷ đồng, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2021.
Thứ bảy, lãi suất và tỷ giá tăng song vẫn trong tầm kiểm soát. Lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng có xu hướng tăng trong 9 tháng đầu năm, với lãi suất huy động tăng 1-1,5% so với đầu năm và lãi suất cho vay tăng chậm và ít hơn. NHNN cũng đã điều chỉnh tăng 1% đối với lãi suất điều hành và trần lãi suất huy động ngắn hạn. Đồng thời, tỷ giá liên ngân hàng tăng khoảng 4,7% khi giá trị đồng USD đạt mức cao nhất trong vòng 20 năm (tăng khoảng 18% kể từ đầu năm 2022) khi FED liên tiếp tăng lãi suất để đối phó lạm phát. Dự báo trong quý 4 và nửa đầu năm 2023, lãi suất và tỷ giá vẫn chịu áp lực tăng trong bối cảnh FED tiếp tục tăng lãi suất (ít nhất đến hết quý 2/2023). Tuy nhiên, mức tăng tại Việt Nam cơ bản trong tầm kiểm soát nhờ các chính sách linh hoạt, chủ động, khá đồng bộ của NHNN và phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ ngày càng nhuần nhuyễn hơn…v.v.
Thứ tám, hoạt động doanh nghiệp có nhiều khởi sắc. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng lần lượt 31,9% và 56,1%; cho thấy doanh nghiệp tiếp tục phục hồi tốt sau dịch bệnh.
Thứ chín, các tổ chức quốc tế đánh giá cao nỗ lực phục hồi, ổn định vĩ mô và tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Việt Nam. Theo đó,(i) Chỉ số Phục hồi Covid-19 do Nikkei công bố (tháng 10/2022) đánh giá Việt Nam xếp thứ 8/121 quốc gia, tăng 82 bậc so với tháng 1/2022;(ii) Tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P (5/2022), nâng hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+ (từ mức BB), với triển vọng “Ổn định”; Moody’s (9/2022) cũng đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng ổn định do đánh giá cao sức mạnh nội tại và và khả năng chống chịu tốt hơn của nên kinh tế; (iii) IMF (10/2022) và World Bank (9/2022) đều có những đánh giá lạc quan, nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2022 (+7-7,2%), cao hơn 1 điểm % so với dự báo của 3 tháng trước đó. Cùng với chính sách phòng chống dịch và mở cửa nền kinh tế phù hợp, đang mở ra nhiều cơ hội thu hút đầu tư FDI của Việt Nam.
NĂM KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC CHÍNH
Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn đối mặt với nhiềukhó khăn, thách thức. Một là, rủi ro, thách thức từ bên ngoài tăng lên với dịch Covid-19 vẫn diễn biến còn phức tạp, nguy cơ dịch đậu mùa khỉ xâm nhập; NHTW các nước tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất, khiến áp lực lãi suất, tỷ giá, rủi ro nghĩa vụ nợ gia tăng; Trung Quốc áp dụng chính sách zero-Covid từ đầu năm đến nay, có thể chỉ mở cửa trở lại dần dần từ đầu tháng 11/2022, nên tăng trưởng chậm lại, chuỗi cung ứng toàn cầu còn gián đoạn; nguy cơ khủng hoảng năng lượng, lương thực ở mức cao. Tất cả những yếu tố này khiến nguy cơ đình lạm – stagflation (năm 2023, tăng trưởng toàn cầu thấp khoảng 2-2,3%, lạm phát toàn cầu còn cao với CPI tăng khoảng 6%) có thể xảy ra cục bộ ở một số quốc gia, khu vực trong năm 2023. Điều này khiến thị trường xuất khẩu Việt Nam bị thu hẹp lại, thu hút FDI mới và chất lượng cũng sẽ gặp khó khăn trong năm tới.
Hai là, một số cấu phần của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội 2022-2023 triển khai còn chậm; đặc biệt là (i) cấu phần hỗ trợ tiền thuê nhà đến hết ngày 23/9, các địa phương nhận hồ sơ 5,2 triệu lượt người với số tiền giải ngân hỗ trợ là 3.545 tỷ đồng (54% kế hoạch); (ii) cấu phần đầu tư cơ sở hạ tầng (quy mô 113 nghìn tỷ đồng) vốn được kỳ vọng sẽ tạo cú hích cho phục hồi kinh tế, song đến nay Chính phủ mới có thể phân giao thực hiện cho các bộ, ngành, địa phương, do khâu chuẩn bị chưa tốt và phải tuân theo luật đầu tư công; (iii) gói hỗ trợ lãi suất 2%, theo NHNN, đến hết tháng 8/2022, doanh số cho vay được hỗ trợ lãi suất khoảng 10.700 tỷ đồng và số tiền giải ngân hỗ trợ lãi suất khoảng 13,5 tỷ đồng (tương đương gần 0,04%, tổng gói 40.000 tỷ đồng). Nguyên nhân chính là do các NHTM gặp khó khăn trong xác định đối tượng được hỗ trợ đối với một số trường hợp khách hàng kinh doanh đa ngành; việc đánh giá khả năng phục hồi còn khó khăn, thiếu nhất quán; ngân hàng và khách hàng có tâm lý sợ thanh, kiểm tra sau khi giải ngân.
Ba là, giải ngân đầu tư công có cải thiện song vẫn còn chậm, chưa đạt yêu cầu. Tổng mức giải ngân 9 tháng đầu năm 2022 đạt 334,5 nghìn tỷ đồng, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên mới đạt 46,7% kế hoạch năm 2022 được Thủ tướng Chính phủ giao; đòi hỏi phải quyết liệt, nghiêm túc thực hiện các chỉ thị về vấn đề này của Chính phủ trong thời gian tới.
Bốn là, rủi ro lãi suất, tỷ giá và dòng tiền đối với doanh nghiệp đang gia tăng. FED và nhiều NHTW tăng mạnh lãi suất để kiểm soát lạm phát, khiến mặt bằng lãi suất toàn cầu tiếp tục tăng, tạo áp lực tỷ giá tăng, nhất là khi đồng nội tệ được neo với USD là chủ yếu. Đồng thời, nhu cầu vốn để phục hồi và trang trải chi phí tăng là khá lớn, trong khi giải ngân đầu tư công còn chậm, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa thể phục hồi nhanh, tín dụng ngân hàng tăng trong hạn mức, thị trường chứng khoán trồi sụt…, khiến một bộ phận doanh nghiệp khó khăn hơn về dòng tiền, đòi hỏi khả năng xoay sở linh hoạt của bản thân doanh nghiệp cũng như sự hỗ trợ kịp thời của các cơ quan chức năng.
Năm là, nợ xấu tiềm ẩn có thể gia tăng. Theo NHNN, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 7/2022 ở mức 1,7%, nợ xấu gộp khoảng 5,41%, giảm so với mức 6,3% tại thời điểm cuối năm 2021 song vẫn ở mức cao. Nguyên nhân chủ yếu do kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, rủi ro suy giảm, thậm chí suy thoái cục bộ như nêu trên, tác động tiêu cực đến xuất khẩu và đầu tư của Việt Nam, cùng với rủi ro lãi suất, tỷ giá và dòng tiền gia tăng…v.v. Trên thực tế, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh lũy kế 9 tháng vẫn tăng 38,7% so với cùng kỳ. Tình trạng này có thể còn tiếp tục trong năm tới, khiến nợ xấu tiềm ẩn có thể gia tăng.
DỰ BÁO CẢ NĂM 2022 và 2023
Về tăng trưởng GDP: năm 2022, kinh tế Việt Nam đang phục hồi và tăng trưởng GDP cả năm 2022 dự báo có thể đạt 7,9-8,1% (kịch bản cơ sở); thậm chí nhiều khả năng có thể đạt 8,3-8,5% (kịch bản tích cực) nếu các động lực tăng trưởng tiếp tục phục hồi mạnh; các dự án đầu tư công, Chương trình phục hồi được triển khai quyết liệt; quá trình chuyển đổi số được thúc đẩy…v.v. Ngược lại, trong kịch bản tiêu cực, nếu rủi ro bên ngoài gia tăng và tác động tiêu cực hơn; Chương trình phục hồi tiếp tục chậm triển khai; các động lực tăng trưởng không được phát huy mạnh mẽ, khi đó kinh tế Việt Nam năm 2022 dự báo tăng trưởng khoảng 7,5-7,8%.Với năm 2023, trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái cục bộ và so với mức nền cao của năm 2022, dự báo GDP Việt Nam tăng trưởng chậm lại, khoảng 6-6,5%.
Về lạm phát: CPI bình quân 2022 dự báo ở mức 3,5-3,8% khi giá cả trong nước tăng chậm hơn so với thế giới và Việt Nam kiểm soát khá tốt lạm phát. Tính đến áp lực lạm phát toàn cầu vẫn ở mức cao (CPI toàn cầu dù đã qua đỉnh ở một số quốc gia, dự báo tăng khoảng 6% năm 2023, giảm từ mức 8,3% năm 2022); nguy cơ “đình lạm” ở một số quốc gia, rủi ro an ninh lương thực và năng lượng vẫn hiện hữu, cộng với độ trễ cung tiền từ cuối năm 2022, CPI bình quân của Việt Nam sẽ còn tăng cao trong năm 2023 (4-4,5%), trước khi trở quỹ đạo khoảng 3,5-4% từ năm 2024.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Nhằm đảm bảo kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội trong những tháng cuối năm 2022 và năm 2023, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV có 5 kiến nghị như sau:
Một là, tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế, chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính – tiền tệ quốc tế; nâng cao hiệu quả hơn nữa trong phối hợp chính sách (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và chính sách giá cả) nhằm kiểm soát lạm phát; tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thận trọng, chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ nhằm bình ổn tỷ giá, lãi suất ở mức phù hợp; tăng cường bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (chứng khoán, trái phiếu, bất động sản, ngoại hối, vàng, xăng dầu…); đẩy mạnh hiệu quả truyền thông về giá cả, lạm phát… nhằm giảm thiểu kỳ vọng lạm phát.
Hai là, tiếp tục các nhóm giải pháp bình ổn giá xăng dầu và giá lương thực – thực phẩm trong nước; xây dựng các kịch bản giá xăng dầu với các biện pháp ứng phó phù hợp; sớm xem xét, quyết định việc giảm thuế, phí xăng dầu trong điều kiện bất lợi; sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu hiệu quả hơn nữa; tăng nguồn cung xăng dầu trong nước; hỗ trợ, thúc đẩy chăn nuôi đảm bảo nguồn cung thịt lợn cho dịp cuối năm và Tết; kiên quyết chống tình trạng buôn lậu, găm giữ hàng và tăng giá bất hợp lý.
Ba là, đẩy nhanh triển khai Chương trình phục hồi (nhất là các cấu phần bị chậm) và giải ngân đầu tư công; quyết liệt cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh và chuyển đổi số nhằm tận dụng cơ hội dịch chuyển chuỗi cung ứng, kiến tạo thúc đẩy đầu tư trong và ngoài nước, tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất, kinh doanh.
Bốn là, trong bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam năm tới khó khăn hơn; các bộ ngành, địa phương và hiện diện Việt Nam tại nước ngoài cần hỗ trợ doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường, đối tác, tận dụng tốt hơn các FTAs thế hệ mới; đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, liên kết vùng nhằm huy động, phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn; sớm nghiên cứu khả năng tiếp tục dùng chính sách tài khóa là chủ lực (chủ yếu là giảm thuế, phí…) nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong bối cảnh dư địa chính sách tiền tệ ngày càng hạn hẹp.
Năm là, xây dựng chiến lược, giải pháp cụ thể để tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế, của các ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp Việt Nam. Qua nghiên cứu sơ bộ của TS.Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV, năng lực chống chịu của nền kinh tế Việt Nam hiện ở mức “Trung bình – khá“; cần tập trung ưu tiên cải thiện một số lĩnh vực như: Chất lượng tăng trưởng; phát triển cân bằng thị trường tài chính; tăng mức độ tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, tăng nội lực, nội địa hóa các yếu tố đầu vào; tháo gỡ các rào cản tăng trưởng bền vững liên quan đến chất lượng thể chế; chú trọng giải quyết các điểm yếu về xã hội – môi trường, đặc biệt là năng lực y tế, chất lượng giáo dục, giảm khí phát thải và tăng năng lực thích ứng biến đổi khí hậu…v.v.