PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh Chuyên gia kinh tế, Giảng viên cao cấp Học viện Tài chính/ VnEconomy
Áp lực lạm phát trong 6 tháng cuối năm với nền kinh tế Việt Nam vẫn rất lớn, tuy nhiên, dù tăng trưởng đạt trên 8%, vượt tốc độ nhiều năm trước đại dịch thì lạm phát cũng chỉ chạm mức 4,1%…
Loạt diễn biến bất thường bắt đầu xảy ra vào cuối tháng 2 khi bùng phát xung đột Nga – Ukraine khiến các quốc gia phương Tây thực hiện nhiều biện pháp trừng phạt với Nga. Giá xăng dầu, giá gas, giá nhiều loại vật tư nguyên liệu và lương thực, thực phẩm thế giới tăng cao đẩy giá hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu “leo thang”.
Cùng với đó, giá nhà ở thuê tăng trở lại sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát là nguyên nhân chính làm CPI tháng 3 tăng 0,7% so với tháng trước, tăng 1,91% so với tháng 12/2021 và tăng 2,41% so với cùng kỳ năm 2021.
Điều này trái ngược với quy luật chung của nhiều năm qua là sau Tết Nguyên đán, CPI thường giảm vào tháng 3 và tháng 4.
Trong 6 tháng đầu năm 2022, giá sắt thép, xi măng tăng cao; giá ngô, đậu, cám gạo tăng 30 – 40%. Nếu tính riêng biến động giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất, quý 2 năm 2022 tăng 2,23% so với quý trước và tăng 6,38% so với cùng kỳ năm trước. Đây cũng là mức tăng cao nhất thập kỷ của giá nguyên, vật liệu gây áp lực tăng lạm phát. Tuy nhiên, việc chỉ số CPI 6 tháng đầu năm 2022 tăng thấp, chỉ 2,44% là do một số nguyên nhân.
NHIỀU MẶT HÀNG TĂNG KỶ LỤC NHƯNG CPI TĂNG THẤP DO ĐÂU?
Thứ nhất, xét về bình diện quốc tế, mặc dù một số nền kinh tế lớn trên thế giới từng bước phục hồi, nhưng do tác động của các gói hỗ trợ kích cầu trong đại dịch Covid-19 nên lạm phát của các nước trên thế giới tăng cao.
Lạm phát của Mỹ tăng 8,6%, đây là mức cao nhất kể từ năm 1981. Lạm phát của khu vực đồng tiền chung châu Âu cũng ở mức cao kỷ lục. Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) nâng gấp đôi mức dự báo lạm phát trong nhóm 38 nước thành viên lên 8,5%, đánh dấu mức cao nhất kể từ năm 1988. Riêng Thổ Nhĩ Kỳ, mức tăng của giá cả còn lên tới 73%.
Đồng thời, sự bùng phát của đại dịch Covid-19 tại một số thành phố lớn ở Trung Quốc và việc thực hiện chính sách “Zero Covid” làm đứt gãy nguồn cung vật tư, linh kiện phục vụ sản xuất thế giới.
Cuộc xung đột Nga – Ukraine và chính sách trừng phạt kinh tế tăng dần của các nước phương Tây đối với Nga cùng sự trả đũa cũng rất mạnh mẽ của Nga với các nước phương Tây làm cho nguồn cung xăng dầu, gas và nhiều vật tư, nguyên liệu bị xáo trộn. Giá cả xăng dầu và nhiều loại vật tư nguyên, nhiên, vật liệu trên thế giới tăng cao, tác động mạnh đến lạm phát.
Tuy nhiên, tình hình giá cả ở Việt Nam chưa bị tác động nhiều trong quý 1 do sức cầu còn yếu, nhiều ngành dịch vụ chưa mở cửa nên CPI một số tháng chưa tăng mạnh.
6 tháng đầu năm 2022, CPI Việt Nam chỉ tăng 2,44% và lạm phát cơ bản tăng 1,25% là tương đối thấp, trong khi lạm phát ở nhiều quốc gia trên thế giới cao kỷ lục hàng chục năm và giá cả nhiều mặt hàng như xăng dầu, nguyên nhiên vật liệu đầu vào của nền sản xuất tăng cao.
Thứ hai, các cân đối vĩ mô lớn của nền kinh tế được kiểm soát và giữ ở trạng thái tốt hơn giai đoạn trước, dự trữ ngoại hối trên 115 tỷ USD, cùng với kinh nghiệm kiểm soát lạm phát thấp nhiều năm tạo niềm tin và sự ổn định nhất định của thị trường tài chính – tiền tệ.
Thứ ba, 6 tháng đầu năm 2022, hoạt động xuất khẩu ước đạt 185,94 tỷ USD, tăng 17,3%; hoạt động nhập khẩu ước đạt 185,23 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 710 triệu USD trong khi cùng kỳ năm trước nhập siêu 1,86 tỷ USD.
Thứ tư, dù vốn FDI đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài 6 tháng đầu năm 2022 đạt gần 14,03 tỷ USD, giảm 8,1% so với cùng kỳ năm 2021 nhưng vốn FDI thực hiện ước tính đạt 10,06 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng giải ngân FDI cao nhất 5 năm qua giúp tăng nguồn cung ngoại tệ, giảm sức ép tăng giá ngoại tệ.
Thứ năm, việc điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và chủ động hơn, lượng cung tiền vào nền kinh tế ở mức vừa phải, việc rút ròng tiền trong lưu thông qua kênh tín phiếu trên thị trường mở, việc bán ngoại tệ kỳ hạn giúp tỷ giá cơ bản ổn định, chỉ số giá USD giảm.
Chỉ số giá USD bình quân 6 tháng đầu năm 2022 giảm 0,2%, VND ổn định và tăng giá so với USD và các đồng tiền khác. Đây là cơ sở để lạm phát cơ bản thấp, ổn định thị trường tài chính tiền tệ và giúp CPI tăng thấp.
Thứ sáu, là nhóm chiếm tỷ trọng cao trong rổ hàng hóa tính CPI nhưng các mặt hàng lương thực được xem xét đều có mức tăng thấp. Thậm chí, một số mặt hàng giảm giá do được mùa và chuỗi cung ứng hồi phục sau khi mở cửa “sống chung” với dịch bệnh như giá thịt lợn, thịt gà, giá gạo, rau đều giảm. Tính chung 6 tháng, nhóm lương thực, thực phẩm trong rổ hàng hóa giảm 0,4% so với cùng kỳ 2021… khiến CPI tăng chậm lại.
Thứ bảy, sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa – tiền tệ; sự vào cuộc nhanh chóng, kịp thời, đồng bộ và quyết liệt của các cơ quan quản lý giá cả và cơ quan quản lý thị trường, tránh các đợt tăng giá sốc vào một số thời điểm nhạy cảm.
MẶT BẰNG GIÁ CẢ SẼ HẠ “SỐT” CUỐI NĂM
Trong 6 tháng cuối năm 2022, có nhiều nhân tố khiến áp lực lạm phát hạ nhiệt, mặt bằng giá cả bớt “sốt” so với đầu năm.
Cụ thể, hầu hết các nước có nhiều kinh nghiệm trong xử lý khủng hoảng trước đây nhận ra rằng, giải pháp kích cầu gần 2 năm qua chẳng những không mang lại hiệu quả như mong muốn mà còn tạo nên mất cân đối cung – cầu trầm trọng hơn, khiến lạm phát bùng nổ trên toàn cầu, vượt đỉnh 30, 40 thậm chí 50 năm qua và đang có các biện pháp khắc phục.
Việt Nam là quốc gia có độ mở cửa sâu rộng, mức độ nhập khẩu nguyên liệu đầu vào chiếm tới 37% nên khả năng “nhập khẩu” lạm phát thông qua nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào rất lớn.
Tuy nhiên, mức độ tăng giá nguyên, nhiên, vật liệu và hàng hóa sẽ không lớn như trong 6 tháng đầu năm, khi đứt gãy nguồn cung do cùng lúc xuất hiện hai nguyên nhân do xung đột Ukraine và do sự bùng phát dịch Covid tại các thành phố lớn của Trung Quốc.
Một số mặt hàng nguyên, nhiên, vật liệu nhập khẩu cho đầu vào sản xuất (như sắt thép, đồng, nhôm, thức ăn chăn nuôi, phân bón…) tăng giá mạnh trong giai đoạn trước, vì vậy, dự báo 6 tháng cuối năm 2022 mức tăng sẽ thấp hơn nhiều.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cảnh báo tình trạng tăng giá lương thực, thực phẩm thế giới trong nửa cuối năm 2022 và trong năm 2023 có thể sẽ đẩy lạm phát thế giới tăng cao. Song, Việt Nam là một quốc gia xuất khẩu lương thực, thực phẩm lớn của thế giới, nên sức ép lạm phát từ tăng giá lương thực, thực phẩm sẽ thấp hơn nhiều quốc gia khác, thậm chí còn được bù đắp bởi sự gia tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản.
NHẬN DIỆN NHÂN TỐ “LUNG LAY” MỤC TIÊU KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Ở góc độ khác, không ít nhân tố tiếp tục đè nặng mục tiêu kiểm soát lạm phát 6 tháng cuối năm.
Một là, nền kinh tế Việt Nam thích ứng tốt với trạng thái chung sống với dịch bệnh, sản xuất phục hồi mạnh mẽ với GDP quý 1 tăng 6,42% và GDP quý 2 năm 2022 tăng 7,72% so với cùng kỳ.
Các hoạt động dịch vụ, đặc biệt là du lịch, hàng không mở cửa trở lại, tăng trưởng 6,6%, đóng góp 46,6% vào mức tăng quý 2, đẩy chỉ số tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cuối cùng tăng 6,06%. Hoạt động du lịch, dịch vụ, xuất nhập khẩu trong quý 3 và quý 4 sẽ tiếp tục có xu hướng tăng cao. Cầu tiêu dùng tăng cũng là một nhân tố có thể thúc đẩy lạm phát tăng.
Hai là, vừa qua, lãi suất ngân hàng xuống tương đối thấp. Tuy nhiên, do sản xuất phục hồi, nhu cầu về vốn tín dụng tăng cao sẽ có khả năng thúc đẩy lãi suất và lạm phát tăng cao.
Ba là, tác động của các gói kích cầu kinh tế năm 2020, 2021 của Việt Nam sẽ lộ rõ, do độ trễ của lượng tiền tệ được đưa vào thị trường và gây sức ép lên giá cả nguyên, nhiên, vật liệu. Đặc biệt, năm 2020, tín dụng trong nền kinh tế tăng trưởng 12,17% nhưng nền kinh tế chỉ tăng 2,91% GDP; năm 2021, tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng khoảng 14% nhưng nền kinh tế chỉ tăng 2,58%. Vì vậy, lượng tiền tệ trong nền kinh tế tương đối lớn có thể gây sức ép lạm phát.
Bốn là, do lãi suất tín dụng hạ thấp, một lượng tiền lớn chuyển hướng vào lĩnh vực bất động sản tạo nên cơn sốt đất và tăng giá bất động sản ở nhiều địa phương như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bắc Giang, Thanh Hóa…
Sau khi Chính phủ và nhiều địa phương có động thái quản lý thị trường bất động sản, cơn sốt có hạ nhiệt nhưng giá bất động sản vẫn cao, mặc dù thanh khoản thấp. Đồng thời, sau các quyết định kiểm tra chặt chẽ hoạt động của thị trường cổ phiếu và trái phiếu, thị trường chứng khoán có nhiều biến động và chỉ số chứng khoán sụt giảm đến 21% cũng tạo nên sự lo lắng. Vì vậy, cần theo dõi chặt chẽ sự biến động trên cả hai thị trường này, tránh tình huống ảnh hưởng xấu đến thị trường đẩy lạm phát tăng.
Năm là, khả năng vốn FDI sẽ tiếp tục được giải ngân tăng cao trong 6 tháng cuối năm 2022 cũng sẽ là một nhân tố có thể giúp tỷ giá VND so với các ngoại tệ bớt căng thẳng. Dù vậy, việc giải ngân cao cũng đòi hỏi lượng nguyên, nhiên, vật liệu, vật tư, lao động và các yếu tố sản xuất tăng cao, đẩy lạm phát tăng cao.
GIẢI PHÁP ĐẮC LỰC “KÌM” LẠM PHÁT CUỐI NĂM
Để giữ tốc độ tăng chỉ số CPI ở mức dưới 4%, hạ thấp tỷ lệ lạm phát và ổn định thị trường tài chính tiền tệ, cần thực hiện tốt một số biện pháp.
Cụ thể, đẩy mạnh công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19 với các biến thể mới có thể bùng phát trở lại và các dịch bệnh khác là tiền đề tốt cho ổn định sản xuất, ổn định thị trường, bình ổn giá cả các mặt hàng. Đây sẽ là yếu tố tiên quyết cho khả năng tăng trưởng và ổn định kinh tế năm 2022.
Cùng với đó, tăng trưởng kinh tế sẽ là nhân tố hỗ trợ đắc lực cho việc giữ ổn định nền kinh tế, giúp tránh được tâm lý hoài nghi của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, tránh tình trạng “lạm phát do tâm lý”.
Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục theo dõi sát tình hình biến động nền kinh tế thế giới và thị trường tài chính tiền tệ, chủ động thực hiện điều hành linh hoạt lãi suất, công cụ thị trường mở, tích cực quản lý và điều chỉnh tỷ giá hối đoái linh hoạt, từng bước ổn định và nâng cao giá trị đồng Việt Nam, góp phần kìm giữ lạm phát cơ bản, làm cơ sở cho việc kìm giữ chỉ số CPI.
Bộ Tài chính cần xem xét kỹ lưỡng nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, tính toán cẩn trọng mức độ, thời hạn, hình thức, phương thức huy động vay nợ công, vừa đảm bảo kích thích nền kinh tế hồi phục và phát triển nhanh chóng, vừa đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay, đảm bảo khả năng trả nợ vay và sự ổn định, phát triển trong dài hạn của nền kinh tế.
Tổng cục Quản lý thị trường (Bộ Công Thương) và Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động giá cả, thị trường, tránh tình trạng “té nước theo mưa” của một số chủ thể, nhất là với các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu; hàng hóa, thiết bị, vật tư y tế phòng chống dịch bệnh, đảm bảo ổn định mặt bằng giá cả.
Đặc biệt, cần có sự theo dõi chặt chẽ của Chính phủ, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước về sự biến động trên cả thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán, tránh các tình huống có thể ảnh hưởng xấu đến thị trường tài chính – tiền tệ và lạm phát.
Giá dịch vụ giáo dục sau thời gian tạm ngưng do dịch bệnh, cần thực hiện tăng theo lộ trình tại một số địa phương vào đầu năm học 2022-2023 cũng góp phần làm tăng chỉ số CPI. Đặc biệt cần lưu ý việc triển khai nghị định về cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập có thể làm tăng các chi phí dịch vụ công. Nhiều trường đại học đang xem xét việc tăng chi phí trong năm học mới cũng là nhân tố có thể đẩy tăng lạm phát.
Cùng với đó, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về điều hành giá, thực hiện tốt các quy định về công khai, minh bạch các thông tin về giá, đặc biệt với các mặt hàng bình ổn giá, mặt hàng thuộc danh mục kê khai giá, các mặt hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, tránh lạm phát kỳ vọng, tránh tin đồn thất thiệt gây hoang mang tâm lý, ảnh hưởng xấu tới mặt bằng giá cả. Đồng thời, cần có các cơ chế theo dõi, quản lý giá thường xuyên giữa các cơ quan liên quan và có chế tài xử lý nghiêm khắc.
Kiểm tra chặt chẽ các yếu tố hình thành giá đối với các mặt hàng bình ổn giá, mặt hàng thuộc danh mục kê khai giá, các mặt hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, tránh việc điều chỉnh giá, tăng giá bất hợp lý. Với những mặt hàng có lộ trình tăng giá, cần xác định rõ mức độ, thời điểm thực hiện, tránh trùng các thời điểm có thể gây biến động lớn đến mặt bằng giá cả của nền kinh tế.
Dự báo trong 6 tháng cuối năm 2022 nếu giá dầu và nguồn cung nguyên vật liệu như hiện nay, lãi suất của các nền kinh tế lớn tăng không quá cao, kinh tế thế giới phục hồi chậm, các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do, kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng ở mức 7% – 7,5% thì khả năng lạm phát cả năm sẽ trong khoảng 3,5 – 3,8%.
Đặc biệt, nếu giá dầu thô hạ xuống thấp hơn hiện nay, cơ hội chống lạm phát của các quốc gia tốt hơn, kinh tế thế giới phục hồi gần với dự báo từ đầu năm, các gói hỗ trợ hồi phục và tăng trưởng kinh tế phát huy tốt tác dụng, doanh nghiệp Việt Nam tận dụng tốt các cơ hội, nắm bắt và thích ứng với các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam ký kết và những thay đổi lớn trong nền kinh tế thế giới, đẩy mạnh xuất nhập khẩu, khu vực du lịch, dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ, tăng trưởng năm 2022 đạt mức 7,8 – 8,4% thì khả năng lạm phát cả năm có thể cũng chỉ ở mức 3,8 – 4,1%
Nguồn: https://vneconomy.vn/thanh-tri-lam-phat-4-kho-xuyen-thung.htm