Phiên An / theo The Economist
Trong khi Mỹ, Âu quay cuồng với bão giá, một số nền kinh tế như Malaysia, Hong Kong, Đài Loan lại có lạm phát tương đối ổn định.
Khi người dân bất bình về việc chi phí sinh hoạt tăng, các nhà hoạch định chính sách chỉ ra rằng giá cả tăng là hiện tượng toàn cầu. “Mọi quốc gia trên thế giới đều đang phải gánh chịu một phần lạm phát”, Tổng thống Mỹ Joe Biden phát biểu hôm 10/6, sau khi Mỹ công bố lạm phát tháng 5 cao nhất 40 năm.
Đúng là chi phí nhiên liệu, phân bón, ngũ cốc và nhiều mặt hàng khác đang tăng ở khắp mọi nơi sau khi khủng hoảng Ukraine nổ ra. Tuy nhiên, không phải ở đâu lạm phát cũng tăng nóng như nhau. Trong 42 nền kinh tế lớn được The Economist khảo sát, 8 nơi vẫn có lạm phát dưới 4%. Sáu trong số tám nền kinh tế này ở Đông hoặc Đông Nam Á.
Một phần nguyên nhân nằm ở sự lây lan của hai căn bệnh. Theo một số ước tính, dịch tả lợn châu Phi năm 2018 – 2021 đã tàn phá đàn lợn ở Trung Quốc, khiến khoảng 200 triệu con bị tiêu hủy. Ban đầu, giá thịt lợn – thực phẩm chính ở Đông Á – tăng mạnh. Nhưng sau đó, giá đã giảm trở lại.
Tại Trung Quốc, giá thịt lợn giảm hơn 21% vào tháng 5/2022 so với cùng kỳ năm ngoái, giúp bù đắp áp lực lạm phát từ những yếu tố khác trong rổ chỉ số giá tiêu dùng.
Căn bệnh thứ hai là Covid-19. Nhiều nơi ở châu Á chuyển sang sống chung với dịch chậm và miễn cưỡng hơn so với phương Tây. Ví dụ, Indonesia đến ngày 22/3 mới bỏ cách ly đối với khách quốc tế.
Tại Malaysia, việc đi lại và di chuyển chỉ thực sự trở lại bình thường vào đầu tháng 5. Trong khi đó, Đài Loan vẫn thận trọng cho đến bây giờ.
Trung Quốc thì vẫn tiếp tục áp đặt các hạn chế nghiêm ngặt đối với việc di chuyển và tụ tập của người dân ở bất cứ nơi nào xuất hiện ổ dịch. Các vụ phong tỏa gần đây ở Thượng Hải và nhiều nơi khác đã cản trở khả năng cung cấp hàng hóa của nền kinh tế và mức độ sẵn sàng chi tiêu của người tiêu dùng.
Sự gián đoạn kép đối với cung và cầu trên lý thuyết có thể làm tăng giá hàng hóa. Tuy nhiên, thiệt hại đối với tiêu dùng còn nặng nề và dai dẳng hơn. Vào tháng 5, tháng thứ hai Thượng Hải bị đóng cửa, doanh số bán lẻ giảm gần 10% so với cùng kỳ năm ngoái, dù sản xuất công nghiệp tăng 0,7%.
Hạn chế đối với du lịch xuyên biên giới cũng đang tàn phá nền kinh tế Hong Kong và Macau – nơi phụ thuộc vào du khách từ đại lục đến các sòng bạc. GDP Macau trong ba tháng đầu năm nay chưa bằng một nửa cùng kỳ năm 2019. Vì vậy, lạm phát 1% cũng không có gì là thần kỳ.
Bên cạnh đó, Đông Á cũng không giống như các khu vực khác trên thế giới. Họ ăn nhiều gạo hơn lúa mỳ. Giá gạo chỉ tăng 8% kể từ khi Nga tổ chức chiến dịch quân sự ở Ukraine, trong khi giá lúa mỳ tăng đến 17%.
Ở phương Tây, lạm phát cao đã buộc nhiều nhà hoạch định chính sách kinh tế ra tay can thiệp. Chẳng hạn, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất thêm 0,75 điểm phần trăm vào ngày 15/6, nhanh hơn dự kiến. Sự vội vàng của Fed trong việc chống lạm phát đang làm phức tạp thêm tình hình ở Đông Á.
Lãi suất cao hơn ở Mỹ sẽ thu hút dòng vốn toàn cầu, gây áp lực giảm đối với các tiền tệ của châu Á. Hong Kong neo nội tệ vào USD, trong khi Macau lại neo vào đôla Hong Kong. Vì thế, họ buộc phải tăng lãi suất một ngày sau Fed. Malaysia và Đài Loan cũng đã tăng lãi suất năm nay. Indonesia, nơi lãi suất ở mức 3,5%, dự báo tăng tháng tới, theo JPMorgan Chase.
Ngoài ra, Malaysia và Indonesia cũng đã thử nghiệm một giải pháp ít chính thống hơn để đối phó với giá cả tăng là cấm xuất khẩu một số mặt hàng. Indonesia đã cấm bán dầu cọ ra nước ngoài trong một thời gian ngắn và Malaysia vẫn giữ lệnh cấm xuất khẩu gà sống.
Mục đích của họ là dự trữ nguồn cung trong nước cho người dân của mình. Tuy nhiên, các chính sách này có thể phản tác dụng nếu giá giảm khiến nông dân địa phương cắt giảm sản lượng. Những lệnh cấm như vậy cũng làm trầm trọng thêm lạm phát ở những nơi khác trong khu vực. Ví dụ, Singapore phụ thuộc vào nhập khẩu gia cầm từ Malaysia.
Một ngoại lệ cho xu hướng thắt chặt tiền tệ là Nhật Bản. Tại cuộc họp ngày 17/6, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản nhắc lại cam kết mua nhiều trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm nếu cần, để giữ lợi suất không quá 0,25%. Họ quyết tâm bám sát mức trần này, ngay cả khi lợi suất tương đương ở Mỹ đã tăng mạnh lên hơn 3,2%. Chênh lệch lợi suất đã góp phần khiến đồng yen lao dốc. Đồng tiền này đã giảm xuống mức thấp nhất so với USD kể từ năm 1998.
Đồng yen yếu sẽ đẩy giá nhập khẩu lên cao, góp phần gây ra lạm phát ở Nhật Bản. Nếu lạm phát cao hơn kéo dài, mọi người sẽ kỳ vọng vào việc tăng lương. Đến lúc đó, lương tăng sẽ kéo giá tăng, khiến vòng xoáy lạm phát xuất hiện.
Tại nhiều nơi ở châu Á, vòng xoáy lạm phát là điều đáng lo ngại. Nhưng ở Nhật Bản, đó là điều mà các nhà hoạch định chính sách tìm kiếm từ lâu. Sau nhiều năm nhu cầu yếu và giá cả giảm, lạm phát đã trở nên thấp một cách nguy hiểm, khiến Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) khó có thể vực dậy nền kinh tế trong thời kỳ suy thoái.
Cũng như các nước khác, Nhật Bản có lạm phát một chút. Nhưng BOJ muốn nhiều hơn thế.
Nguồn: https://vnexpress.net/nhieu-nen-kinh-te-chau-a-van-nam-ngoai-bao-lam-phat-4478478.html