Bức tranh kinh tế vĩ mô Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2022

H. Kim/ CafeF


Bức tranh kinh tế vĩ mô Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2022

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đánh giá, trong 6 tháng đầu năm kinh tế Việt Nam có 9 điểm sáng rõ rệt nhưng từ nay đến cuối năm vẫn đối mặt với một số rủi ro, thách thức từ cả bên ngoài lẫn bên trong. Trong cả năm 2022, tăng trưởng GDP có thể đạt 6,8-7,1% ở kịch bản cơ sở và kịch bản tích cực là sẽ đạt 7,3 – 7,6%; lạm phát có thể cao hơn mục tiêu nhưng ở mức chấp nhận được.

Bối cảnh kinh tế quốc tế

Kinh tế thế giới 6 tháng đầu năm 2022 có thể chia làm hai giai đoạn, trong đó gia đoạn một phục hồi tốt trong 2 tháng đầu năm khi hầu hết các nước dần mở cửa nền kinh tế; các chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu được khai thông, hoạt động kinh tế – xã hội được bình thường hóa trở lại. Tuy nhiên, giai đoạn hai là từ cuối tháng 2/2022, kinh tế thế giới đối mặt với nhiều thách thức, chủ yếu do khủng hoảng tại Ukraina, bất định gia tăng với các lệnh trừng phạt, chuỗi cung ứng tiếp tục bị đứt gãy, khiến giá cả, lạm phát toàn cầu gia tăng, buộc các nước phải đẩy nhanh tốc độ thu hẹp chính sách tài khóa và tiền tệ, tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát, khiến đà phục hồi kinh tế thế giới năm 2022 ngày càng gập ghềnh hơn và có thể đối mặt với nguy cơ đình lạm cục bộ; dự báo chỉ đạt mức tăng trưởng khoảng 2,9% (so với mức tăng trưởng 6,1% năm trước); trong khi lạm phát bình quân toàn cầu dự báo tăng mạnh, ở mức khoảng 6,2% (so với mức 3,8% năm trước); rủi ro an ninh năng lượng, an ninh lương thực tại nhiều nước trên thế giới ngày càng rõ nét.

Bức tranh kinh tế – xã hội Việt Nam 6 tháng đầu năm 2022

Trong bối cảnh quốc tế phục hồi trong bất định, rủi ro; với Việt Nam,nhờ Chính phủ triển khai quyết liệt chính sách linh hoạt, phù hợp trong phòng, chống dịch bệnh, kiên định với chiến lược “Sống chung an toàn với Covid-19”; tiếp tục ban hành các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp giúp khôi phục các hoạt động kinh tế – xã hội, mở cửa du lịch, kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm tiếp tục phục hồi mạnh mẽ ở hầu hết các ngành, lĩnh vực với 9 điểm sáng như sau.

Thứ nhất, tình hình dịch bệnh kiểm soát tốt, các chính sách hỗ trợ tiếp tục được cụ thể hóa tạo điều kiện cho kinh tế phục hồi.Nửa đầu năm 2022, tình hình dịch bệnh được kiểm soát, cùng sự linh hoạt trong chính sách kiểm soát dịch bệnh giúp các hoạt động kinh tế – xã hội đã được khôi phục gần như trước đại dịch. Bên cạnh đó, nhiều chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp cũng đã được ban hành và triển khai như Nghị quyết 01 (ngày 8/1) về nhiệm vụ, giải pháp phát triển KT-XH và Nghị quyết 02 (ngày 10/1) về cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh năm 2022; Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 về chương trình phục hồi và phát triển KT-XH 2022-2023 nhằm triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 (ngày 11/1/2022) của Quốc hội; Nghị quyết 38/NQ-CP ngày 17/3/2022 về Chương trình phòng, chống dịch Covid-19 trong bối cảnh mới.

Các hoạt động kinh tế – xã hội được duy trì và tái khởi động như mở lại các đường bay quốc tế (từ ngày 15/2); mở cửa lại trường học; mở cửa du lịch quốc tế từ ngày 15/3; các hoạt động du lịch trong nước được thúc đẩy trong đợt nghỉ lễ 30/4 và dịp Hè 2022 và SEA Games 31; Thông tư 03/2022/TT-NHNN (ngày 20/5/2022) về hướng dẫn hỗ trợ lãi suất 2% đối với doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP (ngày 20/5/2022); Nghị định số 34/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 về gia hạn thời hạn nộp thuế GTGT, thuế TNDN, cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2022…; góp phần hỗ trợ phục hồi trong năm 2022.

Thứ hai, kinh tế phục hồi mạnh mẽ, tăng trưởng GDP quý II/2022 đạt 7,72%, là mức tăng trưởng quý II cao nhất từ năm 2011 đến nay, cho thấy sự phục hồi tích cực của nền kinh tế Việt Nam, một phần nhờ các chính sách nêu trên. Tính chung 6 tháng đầu năm, GDP tăng 6,42% so với cùng kỳ năm 2021, cao hơn mức tăng 5,64% cùng kỳ năm trước, gần bằng mức tăng 6,76% cùng kỳ năm 2019 và cao hơn mục tiêu của Chính phủ tại Nghị quyết 01 (5,1-5,7%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến – chế tạo là động lực tăng trưởng chính, tăng 9,66%, cao hơn mức tăng 9,63% năm 2019 (trước đại dịch), đóng góp 2,58 điểm % vào mức tăng trưởng chung; lĩnh vực dịch vụ chứng kiến đà phục hồi mạnh mẽ (tăng 6,6%), tương đương với giai đoạn trước đại dịch (6,69% cùng kỳ năm 2019). Đây là kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều rủi ro, bất ổn, lạm phát tăng cao, nhiều nước bị các tổ chức quốc tế hạ dự báo tăng trưởng kinh tế.

Thứ ba,xuất – nhập khẩu tiếp tục tăng trưởng tích cực. Tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu đạt 371,1 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước và cán cân thương mại thặng dư 710 triệu USD. Trong đó, xuất khẩu đạt 185,9 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước; kim ngạch nhập khẩu đạt 185,2 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước; và nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm 94% kim ngạch. Tuy vậy, cần lưu ý là trong mức tăng 16,3% kim ngạch XNK ở đây có đến 59% là do tăng giá (chỉ số giá XNK tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước).

Thứ tư, giải ngân vốn FDI tăng trưởng tích cực. Lũy kế đến hết ngày 20/06/2022, giải ngân vốn FDI đạt 10,06 tỷ USD, tăng 8,9% – làmức cao nhất của 6 tháng trong 5 năm qua, cho thấy tình hình giải ngân vốn FDI tại Việt Nam tiếp tục khả quan; đồng thời điều này góp phần hỗ trợ ổn định tỷ giá và các cân đối vĩ mô khácTuy nhiên,tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 14,03 tỷ USD, giảm 8,1 % so với cùng kỳ chủ yếu do vốn đăng ký cấp mới chỉ đạt 4,94 tỷ USD (giảm 48,2%). Điểm tích cực là vốn đăng ký bổ sung và vốn góp, mua cổ phần tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ (lần lượt đạt 6,82 tỷ USD, tăng 65,6% và 2,27 tỷ USD, tăng 41,4%); cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài hiện tại đối với thị trường Việt Nam.

Thứ năm, thu ngân sách tăng mạnh song cần lưu ý một số yếu tố chưa thực sự bền vững. Thu NSNN 6 tháng đầu năm đạt 932,9 nghìn tỷ đồng, bằng 66% dự toán năm, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm 2021, thể hiện đà phục hồi của khu vực doanh nghiệp và dân doanh, nhưng cũng có một số yếu tố chưa thực sự bền vững, trong đó, tỷ trọng thu nội địa so với tổng thu NSNN có xu hướng giảm (ở mức 79,7% so với mức 83% của năm 2021); thu từ dầu thô (chiếm 3,7% tổng thu ngân sách) tăng 80,8%, thu từ XNK (chiếm 16,6% tổng thu ngân sách) tăng 25,5%, thu từ đất đai tăng từ mức 7% tổng thu ngân sách giai đoạn 2016-2020 lên 13,4% trong 6 tháng đầu năm 2022. Bên cạnh đó, chi NSNN đạt 713 nghìn tỷ đồng, tăng nhẹ 4,5% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó chi đầu tư phát triển tăng 12,3%, cho thấy tiến độ giải ngân đầu tư công vẫn chậm so với kỳ vọng.

Thứ sáu, lãi suất huy động và tỷ giá tăng lên song vẫn trong tiên lượng và tầm kiểm soát. Trong 6 tháng đầu năm, lãi suất huy động của các NHTM có xu hướng tăng, với mức tăng 0,5-1% chủ yếu ở các kỳ hạn từ 6-12 tháng do: (i) thanh khoản của hệ thống các TCTD không còn dồi dào như năm 2021; (ii) nhu cầu tín dụng tăng cao (tăng trưởng tín dụng hết tháng 6 đạt khoảng 8,5%, cao hơn nhiều so với mức 6,44% cùng kỳ năm 2021, trong khi huy động vốn chỉ tăng gần 4% so với cùng kỳ), kéo theo nhu cầu vốn tăng. Tuy nhiên, lãi suất cho vay vẫn được duy trì ổn định nhằm hỗ trợ phục hồi, nhất là gói tín dụng hỗ trợ lãi suất 2% quy mô 40 nghìn tỷ đồng đang được tích cực triển khai.

Bên cạnh đó, tỷ giá có thời điểm biến động mạnh, chủ yếu do đồng USD lên giá, đặc biệt là kể từ tháng 5/2022 khi Fed liên tiếp nâng lãi suất cơ bản, hiện đang ở mức 1,5-1,75% nhằm kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, dự báo tỷ giá trong nửa cuối năm 2022 vẫn trong tầm kiểm soát (cả năm tăng khoảng 2,5%) nhờ: (i) mức tăng của đồng USD thời gian tới dự báo không còn quá mạnh như 6 tháng qua; (ii) cung – cầu ngoại tệ trong nước vẫn tiếp tục được hỗ trợ tích cực (cán cân thương mại dự báo thặng dư 4-8 tỷ USD trong năm 2022 và dự trữ ngoại hối khá dồi dào, trên 100 tỷ USD); (iii) NHNN tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá chủ động, linh hoạt nhằm hỗ trợ ổn định thị trường.

Thứ bảy, hoạt động doanh nghiệp có nhiều tín hiệu khởi sắc nhờ các hoạt động kinh tế – xã hội được khôi phục, mở cửa du lịch và Chính phủ kiên định với chiến lược “Sống chung an toàn với Covid-19”. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới lũy kế 6 tháng là 76,2 nghìn, tăng 13,6%, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 40,7 nghìn, tăng 55,6% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn lũy kế 6 tháng tăng 43%, chứng tỏ còn nhiều doanh nghiệp khó khăn ở một số lĩnh vực, ngành nghề chịu tác động tiêu cực lâu dài bởi dịch bệnh.

Thứ tám, du lịch phục hồi mạnh, song vẫn đối mặt với rủi ro dịch bệnh, địa chính trị và nguồn nhân lực. Khách quốc tế đến Việt Nam 6 tháng đầu năm đạt 602 nghìn lượt khách, tăng 6,8 lần so với cùng kỳ năm trước; cho thấy du lịch đang bùng nổ mạnh mẽ. Du lịch hồi phục tích cực giúp doanh thu du lịch lữ hành 6 tháng đầu năm tăng 94,4% so với cùng kỳ năm trước (doanh thu du lịch đạt 265.000 tỷ đồng, tương đương 78% mức trước đại dịch). Dự báo du lịch sẽ là một trong lĩnh vực phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch (theo báo cáo của WEF, tháng 5/2022). Chỉ số năng lực phát triển du lịch Việt Nam năm 2021 xếp thứ 52, tăng 8 bậc so với năm 2019, nằm trong số 3 quốc gia có mức tăng cao nhất). Tuy nhiên, căng thẳng Nga – Ukraina vẫn dai dẳng, lạm phát còn ở mức cao đe dọa sự hồi phục của du lịch quốc tế cùng việc Trung Quốc tiếp tục thực hiện chính sách “Zero-Covid” khiến khách du lịch từ Trung Quốc (thị trường du lịch hàng đầu của Việt Nam trước đại dịch, chiếm khoảng 28% khách du lịch quốc tế của Việt Nam) vẫn chưa thể sang Việt Nam, khiến ngành du lịch vẫn cần thời gian để hồi phục hoàn toàn (tính chung 6 tháng đầu năm, lượng khách quốc tế vẫn giảm 92,9% so với cùng kỳ năm 2019). Nhiều doanh nghiệp du lịch, khách sạn thiếu lao động do nhân viên du lịch thay đổi công việc trong dịch bệnh và chưa thể phục hồi ngay.

Thứ chín, các tổ chức quốc tế đánh giá cao nỗ lực phục hồi, ổn định vĩ mô và tiến bộ kinh tế – xã hội của Việt Nam. Theo đó,i) Chỉ số Phục hồi COVID-19 do Nikkei công bố tháng 4/2022 đánh giá Việt Nam xếp thứ 62/121 quốc gia, tăng 28 bậc so với tháng 1/2022;(ii) Báo cáo Hạnh phúc Thế giới năm 2022 (3/2022) của UN nâng xếp hạng của Việt Nam lên thứ 77/150 quốc gia, tăng 2 bậc so với năm 2021;(iii) Tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P (5/2022), nâng hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+ (từ mức BB), với triển vọng “Ổn định”; (iv) Theo bảng xếp hạng do Tạp chí CEOWORLD (Mỹ) vừa công bố, chỉ số “Chất lượng sống” của Việt Nam đạt 78,49 điểm, xếp vị trí 62/165 các quốc gia, tăng 39 bậc trên bảng xếp hạng này năm 2021…v.v.

Năm rủi ro, thách thức chính

Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn đối mặt với 5rủi ro, thách thứctừ nay đến cuối năm 2022 và có thể kéo dài sang năm 2023.

Một là, rủi ro, thách thức từ bên ngoài gia tăng; bao gồm:(i) dịch Covid-19 vẫn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát với các biến chủng mới; (ii) khủng hoảng tại Ukraina còn phức tạp, kéo dài, khiến giá cả, lạm phát còn ở mức cao, ít nhất là hết năm 2022; (iii) các nước thắt chặt chính sách tài khóa, tiền tệ, tăng mạnh lãi suất nhằm kiểm soát lạm phát, khiến kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại và có nguy cơ rơi vào tình trạng đình lạm ở một số quốc gia; (iv) Trung Quốc tăng trưởng chậm lại do tập trung vào cơ cấu lại, chất lượng và kiểm soát rủi ro (bao gồm cả chiến lược Zero-Covid), sẽ giảm sức cầu thương mại, đầu tư, du lịch, chuỗi cung ứng toàn cầu còn gián đoạn; (v) rủi ro tài khóa (nợ công, thâm hụt ngân sách, nghĩa vụ trả nợ…) tăng lên khi lãi suất tăng và đồng USD tăng giá; và (vi) nguy cơ khủng hoảng năng lượng và lương thực gia tăng. Như nêu trên, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm nay dự báo chỉ đạt 2,9% (từ mức 6,1% năm 2021) và lạm phát toàn cầu khoảng 6,2% (từ mức 3,8% năm 2021).

Hai là, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trở nên khó khăn hơn. Với đà phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, dự báo thương mại toàn cầu chỉ tăng khoảng 4% năm nay, giảm 1,8 điểm % so với dự báo từ đầu năm, giảm mạnh từ mức tăng 10,3% năm 2021. Theo đó, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới có thể bị ảnh hưởng đáng kể do: (i) sức cầu hàng hóa tiêu dùng giảm trong bối cảnh bất định tăng, lạm phát tăng, người dân (nhất là ở các đối tác nhập khẩu nhiều từ Việt Nam) thắt chặt chi tiêu hơn; (ii) lãi suất tăng khiến vay tiêu dùng, hoạt động đầu tư – kinh doanh của doanh nghiệp chậm lại, giảm cầu nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam; (iii) đứt gãy nguồn cung còn diễn ra, khiến nguyên vật liệu đầu vào bị thiếu hoặc tăng giá (thí dụ, 2 mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn nhất – chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là điện thoại và linh kiện; đồ điện tử, máy tính và linh kiện đang bị thiếu nguồn nguyên liệu đầu vào do tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng)…v.v.

Ba là, một số cấu phần của Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH 2022-2023 triển khai còn chậm. Mặc dù Nghị quyết số 43/2022/QH15 đã được Quốc hội ban hành từ ngày 11/1/2022, Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 nhằm triển khai Chương trình phục hồi, nhưng cấu phần đầu tư cơ sở hạ tầng (quy mô 113 nghìn tỷ đồng) vốn được kỳ vọng sẽ tạo cú hích cho phục hồi kinh tế, song đến nay vẫn chưa thể triển khai với nhiều nguyên nhân như giá nguyên vật liệu (sắt, thép, xi măng…) tăng cao ảnh hưởng tới khâu dự toán đầu tư; công tác chuẩn bị đầu tư của bộ, ngành, địa phương còn chậm; quy trình, thủ tục cần thực hiện theo luật đầu tư công. Ngoài ra, việc triển khai một số chính sách (như hỗ trợ tiền thuê nhà…) còn vướng mắc do hướng dẫn thực hiện chưa chi tiết hoặc một số địa phương phát sinh thêm thủ tục do sợ sai hoặc lo chi vượt dự toán. Ví dụ, đối với chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà, tổng số lao động dự kiến được hỗ trợ khoảng 3,4 triệu người với quy mô 6.600 tỷ đồng, nhưng tới nay sau hơn 3 tháng, các địa phương mới giải ngân được khoảng 70 tỷ đồng (hơn 1%). Chính phủ đã nhận diện vấn đề và đã có chỉ đạo quyết liệt, hướng dẫn bổ sung khắc phục tình trạng này.

Bốn là, lạm phát gia tăng trong bối cảnh giá cả, lạm phát toàn cầu tăng cao. CPI bình quân 6 tháng đầu năm tăng 2,44% chủ yếu là do giá cả (xăng dầu, khí đốt, nguyên vật liệu, logistics và nhu cầu du lịch, ăn uống, đi lại…) đều tăng. Lạm phát cơ bản tăng 1,25% cho thấy lạm phát tăng chủ yếu là do yếu tố giá cả trong điều kiện vòng quay tiền vẫn ở mức thấp (chỉ khoảng 0,4 lần trong 6 tháng đầu năm).Ba nhóm hàng hóa, dịch vụ khiến CPI tăng nhanh là giao thông tăng 17,43% so với cùng kỳ năm trước (đóng góp 69,3% vào mức tăng chung), hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,5% (đóng góp 12,3% vào mức tăng chung), nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2% (đóng góp 15,6% vào mức tăng chung); tuy nhiên, lĩnh vực giáo dục giảm 2,82% (giúp giảm 6,97% mức tăng chung).

Năm là, giải ngân đầu tư công có cải thiện song vẫn còn chậm, chưa đạt kỳ vọng. Tổng mức giải ngân 6 tháng đầu năm 2022 đạt 192,2 nghìn tỷ đồng, bằng 35,3% kế hoạch năm và tăng 10,1% (thấp hơn so mức tăng cùng kỳ 2 năm trước lần lượt là 12% và 20,5%). Nguyên nhân chủ yếu do tồn tại nhiều điểm nghẽn trong quá trình triển khai dự án (trình tự, thủ tục phê duyệt đầu tư kéo dài, vướng mắc về khâu chuẩn bị hồ sơ dự án, giải phóng mặt bằng, giá cả nguyên vật liệu tăng khiến các chủ đầu tư chần chừ hoặc phải chờ đợi phê duyệt thay đổi dự toán…v.v.). Với kết quả 6 tháng đầu năm, việc hoàn thành kế hoạch cả năm đang là thách thức lớn, đòi hỏi Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương phải nỗ lực hơn nữa trong nửa cuối năm 2022.

Triển vọng 6 tháng cuối năm và cả năm 2022

Dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục đà phục hồi, nhờ kiểm soát tốt dịch bệnh và các hoạt động kinh tế – xã hội tiếp tục khởi sắc. Tăng trưởng GDP cả năm 2022 dự báo sẽ đạt khoảng 6,8-7,1% (kịch bản cơ sở, tăng 1 điểm % so với dự báo của TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV hồi tháng 4/2022); thậm chí có thể đạt 7,3-7,6% (kịch bản tích cực) nếu Chính phủ tiếp tục kiểm soát tốt dịch bệnh; thực hiện tốt Chương trình phục hồi, phát triển KT-XH 2022-2023; giảm thiểu tác động tiêu cực từ chiến sự Nga – Ukraina; và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy nhanh tiến trình cải cách và chuyển đổi số. Với kịch bản tiêu cực, nếu rủi ro bên ngoài gia tăng và tác động tiêu cực hơn; dịch bệnh bùng phát trở lại; Chương trình phục hồi chậm triển khai; các động lực tăng trưởng không được thúc đẩy mạnh mẽ, kinh tế Việt Nam năm 2022 dự báo chỉ tăng trưởng khoảng 6,3-6,6%.

Bức tranh kinh tế vĩ mô Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2022 - Ảnh 1.

Về lạm phátdự báo 6 tháng cuối năm, giá cả, lạm phát toàn cầu còn ở mức cao cùng với đà phục hồi, sức cầu và vòng quay tiền trong nước cải thiện hơn, CPI 6 tháng cuối năm dự báo sẽ cao hơn nửa đầu năm; và CPI cả năm ở mức 3,8-4,2%, có thể cao hơn mục tiêu 4% song đây là mức chấp nhận được trong bối cảnh lạm phát toàn cầu tăng mạnh và Việt Nam cần ưu tiên phục hồi.

Bảy kiến nghị

Mặc dù nền kinh tế đã khởi sắc trong 6 tháng đầu năm, song trong bối cảnh rủi ro bên ngoài còn phức tạp, ngày càng gia tăng, nhất là rủi ro lạm phát, an ninh năng lượng và lương thực, ảnh hưởng tới nhiều hoạt động kinh tế – xã hội của Việt Nam, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV có 7 kiến nghị nhằm đạt được mục tiêu năm 2022 như sau.

 Một là, tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết 38/NQ-CP (ngày 17/3/2022) về phòng, chống dịch, với phương châm nhất quán là “sống chung an toàn với Covid”; trong đó cần tiếp tục tiêm vaccine cho trẻ em và mũi tăng cường; triển khai hiệu quả Nghị quyết 12/2021/NQ-UBTVQH15 về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19 và Chương trình nâng cao năng lực y tế (một cấu phần quan trọng trong Chương trình phục hồi).

Hai là, nhất quán thực hiện các mục tiêu, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết 01 và 02 của Chính phủ. Đồng thời, thực thi đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả và nhanh chóng các nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết 43/NQ-QH của Quốc hội và Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình phục hồi, phát triển KT-XH giai đoạn 2022-2023; trong đó các bộ, ngành cần sớm hoàn thành ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện và tháo gỡ kịp thời các vướng mắc khi phát sinh; phấn đấu đạt mức tăng trưởng 6,8-7,1% năm nay.

Ba là, kiên trì mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát (đặc biệt là giá cả, giá xăng, dầu trong nước bằng cách tiếp tục cho phép giảm thuế, phí phù hợp), với chính sách tài khóa chặt chẽ, thích ứng và chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt (bao gồm cả điều hành tỷ giá và tín dụng) và nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách (nhất là giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và chính sách vĩ mô khác. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác truyền thông cùng các biện pháp bình ổn giá (nhất là các giai đoạn cao điểm) nhằm giảm thiểu lạm phát kỳ vọng và hiện tượng tăng giá “té nước theo mưa” v.v.

Bốn là, đẩymạnh cơ cấu lại nền kinh tế với các cấu phần quan trọng (DNNN, TCTD, đầu tư công và đơn vị sự nghiệp công…)  nhằm huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn; thực hiện tốt các mục tiêu, giải pháp về cơ cấu lại nền kinh tế đã đề ra; cũng là góp phần kiểm soát lãng phí, giá cả, ổn định vĩ mô. Sớm giải quyết các rào cản đối với thị trường vốn, thị trường bất động sản, sau những vụ việc vi phạm vừa qua, với cách tiếp cận nhất quán là “kiến tạo thị trường phát triển, kiểm soát rủi ro phù hợp”.

Năm là, quyết liệt, đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đầu tư cơ sở hạ tầng; đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ dự án, giải phóng mặt bằng; kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong triển khai; qua đó, góp phần giảm lãng phí, thất thoát và đà tăng giá nguyên vật liệu, tăng năng lực phục hồi trước mắt và động lực phát triển bền vững lâu dài.

Sáu là, tiếp tục đẩy nhanh cải cách, hoàn thiện thể chế, nhất là cơ chế, chính sách phục vụ phục hồi, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn, gắn với chương trình chống biến đổi khí hậu và thực hiện cam kết tại COP26 của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, hết sức chú trọng tạo điều kiện phục hồi, phát triển doanh nghiệp; đẩy mạnh cải cách hành chính, tháo gỡ các rào cản, xử lý các điểm nghẽn, giải phóng nguồn lực, giảm chi phí cho doanh nghiệp, người dân. Với xuất khẩu, giảm thiểu quy trình thủ tục hải quan, đa dạng hóa nguồn cung nguyên vật liệu, thị trường, đối tác, kiểm soát rủi ro thanh toán…là rất cần thiết.

Cuối cùng, đảm bảo an ninh năng lượng và lương thực; theo đó, cần đảm bảo nguồn cung, kiểm soát giá, tránh tình trạng găm hàng, gom hàng, buôn lậu,…v.v. gây bất ổn thị trường và đẩy mặt bằng giá lên, vừa tăng khan hiếm, vừa tăng lạm phát. Về lâu dài, cần xây dựng Chiến lược an ninh năng lượng và an ninh lương thực quốc gia.

Nguồn: https://cafef.vn/buc-tranh-kinh-te-vi-mo-viet-nam-6-thang-dau-nam-va-du-bao-ca-nam-2022-20220706125035335.chn

Rate this post

Bài viết liên quan

Bình luận

Required fields are marked *