Quan sát đời sống âm nhạc Việt Nam khoảng dăm năm trở lại đây, không khó để nhận thấy một sự thật khá lý thú: bất chấp những nỗ lực đến tuyệt vọng của giới “hàn lâm” trong lĩnh vực giao hưởng thính phòng; bất chấp những hừng hực xông lên, những thể nghiệm táo bạo đáng kinh ngạc của giới “tiền phong” gồm đủ các ca nhạc sĩ già và trẻ; bất chấp cả dòng ca khúc cách mạng “chính thống” luôn nhận được sự nghiêm chỉnh ủng hộ của các kênh phát thanh và truyền hình trên toàn quốc… thì nhân vật chính, giành được sự ưu ái nhất của công chúng khán giả âm nhạc nói chung, lại là một gương mặt cũ, một gương mặt dường như đã yên phận khuất chìm, một gương mặt vốn luôn bị xem thường trong con mắt của cả giới “hàn lâm” lẫn giới “tiền phong” và “chính thống”: các ca khúc thuộc dòng bolero, được sáng tác và lưu hành ở miền Nam Việt Nam trong khoảng thời gian 1950 đến 1975.
Kể từ năm 1975, trong một môi trường xã hội không khuyến khích sự lưu hành những di sản văn hóa của chế độ cũ, bolero đương nhiên không có quyền xuất hiện trên sóng phát thanh và truyền hình, trên các sân khấu ca nhạc lớn nhỏ, trong các danh mục bài hát được cấp phép sản xuất băng đĩa.
Thế nhưng đấy chỉ là ở bề mặt. Còn ở “bề ruột”, người miền Nam vẫn hát bolero trong các phòng trà, vẫn nghe và xem bolero qua băng đĩa được tuồn lậu từ hải ngoại, và nhất là, vẫn có thể “bolero với nhau” ở bất cứ đâu, trong bất cứ cuộc nhậu nào. Có cây tây ban cầm để “quạt chả” đệm theo lời ca thì hay, mà không có thì muỗng đũa gõ bát hay tay vỗ mặt bàn, hết bài này sang bài khác. Triền miên, say sưa, mê mải…
Và cứ thế, qua những cuộc “bolero với nhau” ngày tiếp ngày không dứt, dường như lịch sử một phần tư thế kỷ của dòng nhạc – ít ra, bằng những tác giả, tác phẩm đáng kể nhất – đã liên tục được nhắc nhớ, liên tục được lưu truyền. (Phải nhấn mạnh thông số thời gian “một phần tư thế kỷ”, tức giai đoạn từ 1950 đến 1975, là vì sau năm 1975, tuy vẫn có những bài hát bolero mới được viết, cả ở trong và ngoài nước, song hầu hết chúng đều bị chìm xuống dưới những bài hát cũ, rồi bị lãng quên nhanh chóng). Nói vậy để thấy, dù thời gian trôi và xã hội biến thiên đến đâu, thì bolero, trong tính ngưng kết tương đối của nó, vẫn cứ sống bền bỉ, sống như thể một phần gắn bó đến thành máu thịt với đời sống tinh thần của con người miền Nam.
Bởi thế, dăm năm trở lại đây, khi bầu khí quyển xã hội đã khác trước rất nhiều và bolero rực rỡ lên ngôi – như một nỗi khó chịu, một cái gai trong mắt, một hiện tượng gây nhiều lo lắng cho cả những người “tiên phong” lẫn những người “chính thống” về trình độ thẩm mỹ âm nhạc “thụt lùi” của quốc dân – thì đó không hề là một sự đột xuất. Người ta dễ dàng trách các đài truyền hình, từ trung ương đến địa phương, rằng đã quyết liệt vơ vét như thể con buôn khi để những gameshow bolero chiếm sóng tới mức kinh khiếp.
Người ta cũng dễ dàng dè bỉu rằng anh A chị B “đổi dòng” sang hát bolero không phải vì say mê say mệt gì như họ vẫn thổ lộ, mà chẳng qua chỉ để kiếm tiền nhiều hơn. Quả thật, mục đích hốt bạc bằng bolero là không thể phủ nhận, nhưng liệu những ca sĩ và những người quản lý các kênh sóng truyền hình có thể thực hiện nổi mục đích ấy, nếu trong khối khán thính giả mênh mông kia không thường trực một nhu cầu bolero mạnh mẽ?
Lại có một vài câu hỏi khác, tuy chẳng mới mẻ gì, nhưng hình như chưa bao giờ được trả lời thỏa đáng: tại sao bolero có thể sống bền bỉ, dai dẳng và tươi nguyên qua nhiều thế hệ khán thính giả? Cái gì ở bolero khiến những bài hát cũ – lớp ca khúc muộn nhất cũng đã 43 – 44 tuổi, lớp ca khúc sớm nhất thì ngót 70 – lại có được một hiện tại tiếp diễn liên tục và phổ biến đến thế? Phải chăng là các bài bolero – ta vẫn đang nói tới dòng nhạc bolero ở miền Nam trong khoảng từ 1950 đến 1975, với bolero là thể điệu chủ đạo, ngoài ra có thêm một ít bài viết theo điệu rumba hay slowrock, thậm chí cả điệu tango – sở hữu phẩm chất đặc biệt nào đó, thứ phẩm chất có thể “đánh” trúng những nhu cầu thường hằng trong tâm hồn đại đa số khán thính giả?
Khi ta cần cái sến, khi ta muốn sự mủi lòng, ta có nhu cầu được thấy bản thể tinh thần của mình tan hòa vào nỗi sầu thương tủi hận thống thiết nhức nhối trong một khoảng thời gian nào đó, thì bolero là đáp ứng tốt nhất. |
Bởi thế, không chỉ tầng lớp bình dân, dân lao động, những người được/bị mặc định là hạn chế về trình độ nhận thức thẩm mỹ, mới mê bolero. Thực tế là không ít người thuộc tầng lớp trung lưu trở lên, thậm chí cả giới trí thức đại học và giới quản lý văn hóa, cũng sẵn lòng “phiêu” với bolero mỗi khi có thể. Tóm lại, khi ta cần cái sến, khi ta muốn sự mủi lòng, ta có nhu cầu được thấy bản thể tinh thần của mình tan hòa vào nỗi sầu thương tủi hận thống thiết nhức nhối trong một khoảng thời gian nào đó, thì bolero là đáp ứng tốt nhất.
Ở đây, nên trở lại một lúc với đời sống âm nhạc (ca khúc đại chúng) miền Nam giai đoạn 1950 – 1975. Khác với ở miền Bắc, nó đã hình thành như một thị trường: ca khúc được viết ra, được hát, được thu thanh ghi đĩa, là để bán – dĩ nhiên không loại trừ trường hợp nhạc sĩ viết bài hát, trước hết, như thực hiện một biên bản trung thực của tâm hồn mình – vậy nên người bán (nhạc sĩ, ca sĩ, hãng đĩa hát) hết sức chú ý đến người mua (khán thính giả) và nhu cầu của họ. Các hãng đĩa hát Sài Gòn hồi ấy đã sớm nhìn thấy ở bolero và phân khúc người nghe bình dân một thị trường âm nhạc có khả năng sinh lời cực lớn, và họ ra sức đầu tư, chăm chút.
Chế Linh, một giọng ca bolero “khét tiếng”, kể: vào quãng giữa thập niên 1960, khi bà chủ hãng dĩa hát Việt Nam đặt nhạc sĩ Trúc Phương, một tác giả bolero “khét tiếng”, viết bài hát cho Chế Linh để ra đĩa mới, đã kèm theo lời dặn: “Viết cho nhão vô thì mới thiệt ăn tiền”. “Nhão”, hay “sến”, thì cũng vậy thôi, là nhấn mạnh vào khả năng tạo ra niềm thương cảm cho bài hát, là xoáy đúng vào nhu cầu được mủi lòng của người nghe, và hiệu ứng ấy phải diễn ra ở mức độ cao nhất, để lại dư chấn lâu bền nhất.
Các nhạc sĩ bolero đã thực hiện được yêu cầu ấy một cách tuyệt vời. Nhìn về đại thể, căn cứ trên các bài bolero được yêu thích nhất, có thể thấy các “mẹo” (mượn chữ thường dùng của Phan Ngọc, học giả luôn chủ trương quy sáng tạo nghệ thuật thành các thao tác) của họ như sau: Một, thật đơn giản về giai điệu; dễ hiểu, dễ thuộc về ca từ. Cái hóc hiểm lắt léo tuyệt không phải tinh thần của bolero. Hai, bài hát phải có tính tự sự. Nghĩa là ở đó phải có một câu chuyện được kể lại bằng lời ca. Câu chuyện càng éo le mùi mẫn thì lời ca kể chuyện càng dàn trải, não nề, thê thiết. Ba, khai thác hết mức các chủ đề, các tình huống, các cảnh trạng mang sức mạnh khuếch tán sự mủi lòng: tình yêu tan vỡ vì sự lừa dối hoặc những rào cản xã hội khắc nghiệt, nỗi cô đơn tuyệt vọng giữa cuộc đời đen bạc, mặc cảm cái nghèo trong thời đại kim tiền, nỗi đau đứt ruột khi quê hương lâm cảnh bom đạn dày xéo…
Về phương diện này, bolero không phải không mang dư ba của một thời đoạn lịch sử đầy biến động. Vì thế, trong những tiếng khóc nấc ấy có sự chân thực của những vết xước trên trái tim, cái làm nên sức thuyết phục nhất định của chúng, với người cùng thời, cả với kẻ lệch thời.
Mới đây trong một cuộc trò chuyện về việc dạy nhạc thời bây giờ, ông Trưởng khoa Thanh nhạc của Nhạc viện Hà Nội nhân tiện có nói nhỏ với tôi mấy câu về bolero: “Về nhạc học, thật ra nó chẳng có gì đáng kể đâu. Nhưng lời, thì đúng là thỉnh thoảng, nó cứ như cứa vào lòng người”.